Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

Vài nét về cuộc đời của S.Ha­wking

Vài nét về cuộc đời của  S.Ha­wking
Trả lời :

I.  Đôi nét về của S.Hawking

Stephen William Hawking là một nhà vật lý người Anh. Trong nhiều thập kỉ, ông được coi là ông hoàng vật lý lý thuyết của thế giới. Hawking hiện là giáo sư Lucasian, chức danh dành cho giáo sư toán học của Đại học Cambridge. Từng đảm nhiệm vị trí này là những nhà khoa học xuất chúng như Isaac Newton và Paul Dirac.

Tiểu sử

Hawking sinh ngày 8 tháng 1 năm 1942, tại Oxford Anh quốc đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo. Cha mẹ ông là Frank và Isobel Hawking, trước Đệ nhị thế chiến họ sống ở miền bắc Luân Đôn nhưng sau đó chuyển đến Oxford cho an toàn. Hai năm cuối ở trung học St Albans, Oxford, Hawking rất thích thú với môn toán vì có cảm hứng từ một người thầy ở trường này. Nhưng cha ông, một dược sỹ lại phản đối ý kiến của con trai mà muốn ông học ngành hóa họ. Một phần bị thuyết phục bởi người cha, sau khi tốt nghiệp, Hawking theo học University College ở Oxford, đây chính là trường mà cha ông từng theo học trước đây. Nhưng trường này không có ngành toán, chính vì thế mà ông theo học ngành vật lý và tốt nghiệp loại xuất sắc. Sau đó ông chuyển đến Đại học Cambridge để tiếp tục theo đuổi luận án tiến sỹ về vũ trụ học.

Trong thời gian làm luận án, người ta phát hiện ra Hawking bị mắc một chứng bệnh về thần kinh có tên là bệnh Lou Gehrig làm ông gần như mất hết khả năng cử động,luôn phải gắn chặt vào xe lăn. Ngoài ra, sau lần phẫu thuật cắt khí quản, ông chỉ có thể nói được nhờ một thiết bị phát âm gắn với một máy tính được ông gõ chữ vào đó. Các bác sỹ cho rằng ông không sống lâu để có thể hoàn thành luận án tiến sỹ. Năm 1965, Hawking kết hôn với Jane Wilde, một sinh viên ngôn ngữ. Hawking cho rằng đây là một bước ngoặt trong cuộc đời ông. Kết quả là ông đã hoàn thành luận án vào năm 1966. Lúc bấy giờ, chưa có ai nghiên cứu về ngành khoa học này ở đại học Cambridge. Người hướng dẫn của ông là Denis Sciama chứ không phải là người mà ông trông đợi là Fred Hoyle. Bảo vệ luận án tiến sỹ xong, ông làm nghiên cứu một thời gian cho viện Thiên văn học rồi chuyển đến khoa Toán học ứng dụng và Vật lý lý thuyết của Cambridge (năm 1977) và làm việc từ đó cho đến ngày nay.
Năm 1990, ông đã nhận một cô bé người Việt sinh năm 1980 là Nguyễn Thị Thu Nhàn đang sống tại làng trẻ em SOS Hà Nội làm con nuôi, và ông đã sang Việt Nam năm 1997 để thăm cô.
Tháng 4 năm 2010, ông đã phát biểu một bài diễn văn về người ngoài hành tinh . Ông nghĩ rằng người ngoài hành tinh là có thật và nếu như họ đến Trái Đất thì chúng ta nên tránh tiếp xúc với họ vì họ sẽ giống như người Châu Âu ngày xưa khám phá ra Châu Mĩ (là Trái Đất). Họ sẽ xâm lăng và đô hộ Trái Đất nhằm mục đích lấy tài nguyên đã cạn kiệt ở hành tinh họ.
Hawking kết hôn hai lần, lần đầu năm 1965 với Jane Wilde. Hai người sống với nhau đến năm 1990 thì ly thân. Họ có ba người con là Robert, Lucy, và Timothy. Năm 1995, Hawking kết hôn với trợ lý chăm sóc cá nhân của mình là Elaine Mason. Đến tháng 10 năm 2006, họ ly dị. Năm 1999, Jane Hawking xuất bản cuốn hồi ký "Music to move the Stars", miêu tả chi tiết cuộc hôn nhân và các sự cố của nó.Năm 2010, Jane xuất bản một phiên bản sửa đổi là "Travelling to Infinity, My Life with Stephen".
Về căn bệnh của Hawking, các bác sĩ cho rằng bệnh của ông tiến triển khá chậm so với các trường hợp thông thường. Hawking nói đó là một sự may mắn. Quả thật, căn bệnh cũng không mấy cản trở sự nghiệp nghiên cứu khoa học miệt mài của Hawking. Hiện tại, nhà khoa học có thể sử dụng má của mình để nhập dữ liệu vào một máy tính kết nối đến não, qua đó xây dựng các câu nói hoàn chỉnh, thậm chí là những bài diễn văn.
.
Sự nghiệp nghiên cứu khoa học

Lĩnh vực chính của Hawking là nghiên cứu lý thuyết vũ trụ học và hấp dẫn lượng tử. Năm 1971, ông đưa ra các công trình toán học ủng hộ cho lý thuyết Vụ nổ lớn về nguồn gốc vũ trụ: nếu lý thuyết tương đối rộng là đúng thì vũ trụ cần phải có một điểm kì dị, một điểm khởi đầu trong không thời gian. Ông còn cho rằng, sau Vụ nổ lớn, các hố đen nguyên thủy hoặc các hố đen siêu nhỏ được hình thành. Ông chứng minh rằng diện tích bề mặt của hố đen không bao giờ giảm, rằng tồn tại một giới hạn trong quá trình phát xạ khi các hố đen va vào nhau, và rằng một hố đen không thể bị tách thành hai hố đen riêng biệt. Năm 1974, các tính toán của ông cho thấy các hố đen có thể tạo và phát ra các hạt hạ nguyên t cho đến khi chúng cạn kiệt năng lượng và bị nổ tung. Lần đầu tiên ông đưa ra bức xạ Hawking có liên quan đến sự hấp dẫn, cơ học lượng tử và nhiệt động lực học. Năm 1981, Hawking cho rằng vũ trụ không có biên nhưng lại hữu hạn trong không thời gian và năm 1983 ông đã chứng minh điều này bằng toán học.
Trong năm 2007, Hawking đã làm một chuyến bay không trọng lượng trong tàu "Vomit Comet". Ông trở thành mgười liệt tứ chi đầu tiên trải nghiệm sự trôi nổi trong môi trường không trọng lượng. Trước chuyến bay Hawking nói: "Nhiều người đã hỏi tôi tại sao tôi đang tham gia chuyến bay này, tôi làm nó vì nhiều lý do. Trước hết, tôi tin rằng cuộc sống trên Trái đất có nguy cơ bị xóa sổ ngày càng tăng bởi một thảm họa như chiến tranh hạt nhân bất ngờ, một loại virus biến đổi gen, hoặc các nguy cơ khác. Tôi cho rằng loài người sẽ không có tương lai nếu không đi vào không gian. Vì vậy, tôi muốn khuyến khích sự quan tâm của công chúng với không gian".

 II.  Cuộc đời và sự nghiệp của Ông

1. Lực học trung bình trên lớp Chúng ta đều thấy rằng Hawking có một trí tuệ tuyệt vời, chỉ số IQ lên tới 160 (bằng với thiên tài Albert Einstein). Chỉ có một phần rất nhỏ dân số đạt được mức IQ này. Tuy nhiên nếu biết đến quãng thời gian đi học của ông thì có thể bạn sẽ ngạc nhiên. Thực tế rằng khi 9 tuổi, kết quả học tập của ông chỉ đứng ở phần cuối lớp. Lên các lớp trên có sự tiến bộ hơn nhưng không nhiều. Vấn đề không nằm ở trí tuệ mà có vẻ do sự trễ nải của ông. Không thực sự tập trung vào học tập nhưng ngay từ bé ông đã quan tâm đến cách mà mọi công cụ hoạt động. Ông thường xuyên mày mò tháo rời radio, đồn hồ để nghiên cứu những bộ phận nhỏ. Thú vị là ông thừa nhân mình không giỏi trong việc đưa chúng về trạng thái ban đầu. Và mặc dù điểm số không tốt nhưng cả giáo viên và bạn bè đều thấy được tố chất thiên tài của ông. Biệt danh của ông ở trường là “Einstein”. Cha ông muốn cho ông vào học ở Oxford nhưng không có học bổng và điểm số thì lại quá bình thường. Cuối cùng thì ông cũng được nhận bởi điểm số tuyệt vời trong bài kiểm tra vật lý
.
 2. Không thích lĩnh vực sinh vật học Cha của Stephen Hawking – một dược sĩ đã từng có mong muốn ông sẽ đi theo con đường nghiên cứu y học. Tiếc rằng, ở trường đại học, ông lại tỏ ra thích thú với chuyên ngành sinh học. Ông không quan tâm nhiều đến sinh học hay y khoa, ông cảm thấy nó “không chính xác và quá đi vào mô tả”. Và ông đã tập trung cho lĩnh vực phù hợp với tư tưởng của mình hơn. Xảy ra một vấn đề là đại học Oxford của ông không đi sâu nhiều trong lĩnh vực toán học nên ông đã chuyển sang ngành vật lý. Với chuyên ngành này, Hawking cũng có sự đào sâu vào nghiên cứu vật lý vũ trụ dù ngành này chưa thực sự được công nhận trong thời điểm đó. Sau khi nhân được bằng tốt nghiệp xuất sắc ở Oxford, ông chuyển đến Đại học Cambridge để tiếp tục theo đuổi luận án tiến sỹ về vũ trụ học.

 3 Đã từng ở trong đội tuyển Rowing của Oxford Trong những trang viết của mình, nhà viết tiểu sử Kristine Larsen đã đề cập đến những khó khăn mà Hawking phải đối mặt trong quãng thời gian đầu đại học. Một trong số đó là sự cô đơn và chưa hòa nhập được. Và để thoát ra tình trạng đó, ông đã tham gia vào đội Rowing (chèo thuyền) của trường. Sự việc này diễn ra trước khi ông bị chẩn đoán mắc căn bệnh quái ác. Nhưng từ bé đến quãng thời gian đại học ông cũng chưa bao giờ thực sự tham gia một môn thể thao nào. Có thể vì ông không thích và một phần cũng do ngoại hình bé nhỏ của mình. Tuy nhiên, đội Rowing lại cần một vị trí dẫn đầu (coxswains), có nhiệm vụ kiểm soát, chỉ đạo và ông đã được nhận. Ở môi trường đại học, thể thao rất phát triển và chiếm một tầm ảnh hưởng khá lớn. Trong vai trò của mình, đã có nhiều người nhớ đến Hawking và đồng đội thường nhắc đến ông như một người “thích phiêu lưu mạo hiểm”. Tuy nhiên việc tham gia cũng làm ảnh hưởng đến việc học tập của ông không ít khi hải sử dụng đến 6 buổi chiều mỗi tuần cho việc tập luyện.
 4. Biết mình chỉ còn sống được vài năm khi ở tuổi 21 Sau khi tốt nghiệp, Hawking bắt đầu làm luận án, thời gian này ông bắt đầu gặp một số triệu chứng như hay vấp ngã, khó cử động. Gia đình đã nhận thấy điều đó khi ông về thăm nhà vào dịp Giáng Sinh. Sau đó ông đã được đưa đến bác sĩ. Trong thời gian chờ đợi kết quả, ông đã gặp vợ tương lai của mình – Jane Wilde. Cô gái ngay lập tức đã bị thu hút bởi tính độc lập và hài hước của chàng trai. Họ bắt đầu hẹn hò. Bước qua tuổi 21, Hawking nhận được kết quả rằng ông mắc một loại bệnh vô phương cứu chữa. Đó là Bệnh xơ cột bên teo cơ còn được gọi là bệnh Lou Gehrig (ASL). Triệu chứng của bệnh là 4 cơ bị teo và mất đi sức lực, có lúc bệnh còn tái phát ở miệng và vùng họng. Cơ thịt của những người bị bệnh sẽ dần dần mất đi sức lực và có thể dẫn đến bị liệt, khả năng nói, nuốt và hô hấp cũng yếu đi đến khi không còn khả năng hô hấp dẫn đến chết. Ông được chẩn đoán là chỉ sống thêm được vài năm nữa và sẽ không thể hoàn thành được luận án tiến sĩ. Đây là một cú shock quá lớn với một chàng trai đầy nhiệt huyết và tham vọng như Hawking. Ông đã suy sụp trong một thời gian, nhưng khi nhìn thấy một cậu bé chết vì ung thư máu trong bệnh viện ông đã nhận ra rằng còn nhiều người kém may mắn hơn mình. Chàng trai trẻ đã lấy lại sự lạc quan, ông tiếp tục hẹn hò với Jane và họ đã nhanh chóng đính hôn. Đối với Hawking, đây chính là động lực lớn nhất để tiếp tục sống.


5. Góp phần tạo ra lý thuyết vũ trụ vô biên Một trong những thành tựu lớn nhất mà Hawking đạt được trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học của mình là việc góp phần chứng minh lý thuyết vũ trụ vô biên nhưng lại hữu hạn trong không thời gian. Ông đã chứng minh được điều này vào năm 1983. Cùng với cộng sự của mình là Jim Hartle, Stephen Hawking đã kết hợp các khái niệm lượng tử cơ học, dao động lượng tử, biến động vi mô để chứng minh rằng vũ trụ là một thực thể vô biên. Giải thích về khái niệm này, ông so sánh vũ trụ có hình dạng giống như một quả bóng trên phương diện về diện tích, nếu đo diện tích bề mặt quả bóng thì ta sẽ có số đo cụ thể, nhưng chúng ta không xác định một biên nào trên bề mặt của quả bóng đó vì mọi điểm trên quả bóng đó đều y hệt như nhau. Tuy nhiên một trong những khác biệt là bề mặt trái đất hai chiều trong khi vũ trụ là bốn chiều (bản thân trái đất là ba chiều nhưng bề mặt hai chiều). Ông còn đặt ra nhiều vấn đề về không thời gian, nhiều vấn đề chưa có lời giải đáp chính xác hoặc sự chứng minh xác đáng vì vũ trụ còn nhiều bí ẩn chưa được khám phá. Tuy nhiên, những suy luận của ông đã tạo ra những hướng mới trong công cuộc nghiên cứu vũ trụ.


  III.  Chùm ảnh: Cuộc đời nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking


Dù bị bại liệt toàn thân và phải ngồi trên xe lăn nhưng nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking đã được cả thế giới biết đến với các công trình nghiên cứu về vũ trụ và trọng lực học.

 


Stephen Hawking sinh ngày 8/1/1942, tại Oxford, Anh. Đây là bức ảnh Hawking (trái) hồi nhỏ chụp chung với em gái Mary.



Hawking (trái) năm 12 tuổi trong khu vườn của gia đình ở St Alban, phía bắc London và năm 1962 khi tốt nghiệp đại học Oxford.

Hawking kết hôn với Jane Wilde năm 1965. Ông bị phát hiện mắc một căn bệnh về thần kinh có tên là bệnh Lou Gehrig năm 21 tuổi, ngay trước khi kết hôn. Các bác sĩ khi đó nói rằng ông không thể sống quá 2 hoặc 3 năm. Hawking dần dần mất khả năng cử động chân, tay, mất khả năng nói và sau đó bị bại liệt toàn thân.

Stephen Hawking cùng Jane và con trai Tim sau khi được trao học vị danh dự tại đại học Cambridge. Cuộc hôn nhân đầu của Hawking chấm dứt năm 1991. Hawking và Jane có 3 người con.

Năm 1995, ông cưới người vợ thứ 2 là Elaine Mason. Chồng cũ của Elaine chính là nhà khoa học David Mason, người đã thiết kế máy tạo giọng nói cho Hawking. Nhưng tháng 12/2006, Mason và Hawking đã ly hôn.

Stephen Hawking trong một bức ảnh năm 1996. Dù bị bại liệt toàn thân và phải ngồi trên xe lăn suốt nhiều năm nhưng Hawking vẫn đam mê nghiên cứu khoa học.

Hawking tại trung tâm Toán học ứng dụng và Vật lý lý thuyết của Đại học Cambridge năm 2001. Ông công tác tại đây từ năm 1977 cho đến nay. 


Ông nổi tiếng với các nghiên cứu về lý thuyết vũ trụ học và hấp dẫn lượng tử.
Stephen Hawking tiếp kiến Nữ hoàng Anh Elizabeth II tại phòng hòa nhạc của Cung điện Buckingham năm 2006.
Giáo sư Hawking trải nghiệm cảm giác không trọng lượng trên độ cao 10.000 mét tháng 4/2007.


Stephen Hawking công bố chiếc đồng hồ không kim, không số Corpus Clock do nhà phát minh người Anh John Taylor sáng chế.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét