Thứ Ba, 1 tháng 1, 2013

Phân biệt thiên hà và dải ngân hà

Phân biệt thiên hà và dải ngân hà ?
Trả lời :


Dải Ngân Hà là thiên hà mà hệ Mặt Trời nằm trong đó. Trong văn học nó còn có tên gọi là sông Ngân. Nó xuất hiện trên bầu trời như một dải sáng trắng kéo dài từ chòm sao Tiên Hậu về phía bắc và chòm sao Nam Thập Tự về phía nam. Dải Ngân Hà sáng hơn về phía chòm sao Nhân Mã là chỗ trung tâm của dải Ngân Hà. Một dữ kiện thực tế là dải Ngân Hà chia bầu trời thành hai phần xấp xỉ bằng nhau chứng tỏ hệ Mặt Trời nằm rất gần với mặt phẳng của thiên hà này. Từ Ngân Hà có nguồn gốc từ tiếng Trung Hoa, và cũng được sử dụng tại Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên.


Thiên hà là một tập hợp từ khoảng 10 triệu (107) đến nghìn tỷ (1012) các ngôi sao khác nhau xen lẫn bụi, khí và có thể cả các vật chất tối xoay chung quay một khối tâm. Đường kính trung bình của thiên hà là từ 1.500 đến 300.000 năm ánh sáng. Ở dạng đĩa dẹt, thiên hà có các hình dạng khác nhau như thiên hà xoắn ốc hay thiên hà bầu dục. Khu vực gần tâm của thiên hà có kích thước ước chừng 1.000 năm ánh sáng, và có mật độ sao cao nhất cũng như kích thước các sao lớn nhất.
Dù vật chất tối lý thuyết dường như chiếm khoảng 90% khối lượng đa số thiên hà, tình trạng của những thành phần không nhìn thấy được này vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Có một số bằng chứng cho thấy rằng những hố đen khối lượng siêu lớn có thể tồn tại tại trung tâm của đa số, nếu không phải là toàn bộ, các thiên hà.
Không gian liên thiên hà, khoảng không nằm giữa các thiên hà, được lấp đầy plasma loãng với mật độ trung bình chưa tới một nguyên tử trên mỗi mét khối. Có lẽ có hơn một trăm tỷ (1011) thiên hà trong khoảng không gian vũ trụ có thể quan sát được của chúng ta.
Trái Đất nằm trong một hệ mặt trời thuộc một thiên hà có tên là Ngân Hà; Hệ Mặt Trời của chúng ta nằm ở phía ngoài rìa của đĩa thiên hà Ngân Hà, trên nhánh Tráng Sĩ. Vào các buổi tối mùa hè, từ Trái Đất nhìn vào tâm sẽ thấy một dải các sao thường được gọi là dải Ngân Hà. Tuổi của Ngân Hà được ước lượng vào khoảng 13 tỷ năm, ngoài ra tuổi đời còn được tính bằng số vòng quay của nó.
Thiên hà gần Ngân Hà nhất có tên là thiên hà Andromeda. Các thiên hà ở gần nhau có xu hướng tiến lại gần và sát nhập vào nhau, tạo thành một thiên hà lớn hơn.
Các thiên hà cũng giống như các hành tinh và các hệ hành tinh, chúng cũng tập hợp thành những nhóm gọi là Quần tụ thiên hà. Các Quần tụ thiên hà lại họp lại trở thành Siêu thiên hà...
 
Dưới đây là một số hình ảnh về Thiên hà và Dải Ngân hà :
 

Hình ảnh về Dải Ngân Hà



Một số thiên hà nhỏ từng va chạm với dải Ngân hà.



Andromeda và Ngân Hà từng được coi là cặp thiên hà song sinh do kích thước và tuổi của chúng gần bằng nhau




Thiên hà Centaurus A (hay NGC 5128) được chụp từ đài thiên văn La Silla ở Chile. Centaurus A là một thiên hà hình elip khổng lồ và có một hố đen siêu lớn ở trung tâm.




Bức ảnh về thiên hà Xoáy nước 



Viễn vọng kính không gian Hubble đã bắt được hình ảnh của một thiên hà “xoáy trôn ốc bị chắn”




Dải Ngân hà



Kính thiên văn Hubble của NASA chụp một cặp thiên hà chồng lên nhau được gọi là NGC 3314.

Sao là gì, có những loại sao nào ? Sao hình thành và phát triển ra sao

Câu hỏi : Sao là gì? có những loaị sao nào ? Sao hình thành và phát triển ra sao?
Trả lời :
1. Khái niệm sao là gì
Ngôi sao là một quả cầu plasma sáng, khối lượng lớn được giữ bởi lực hấp dẫn. Ngôi sao gần Trái Đất  nhất là Mặt Trời, nó là nguồn của hầu hết năng lượng trên Trái Đất. Nhiều ngôi sao khác có thể nhìn thấy được trên bầu trời đêm, khi chúng không bị lu mờ đi dưới ánh sáng của Mặt Trời. Về mặt lịch sử, hầu hết các ngôi sao sáng và nhìn thấy bằng mắt thường nằm trên thiên cầu được nhóm lại cùng nhau thành các chòm sao và các mảng sao, và những ngôi sao sáng nhất đều được đặt những tên gọi riêng. Các danh lục sao  mở rộng đã được các nhà thiên văn lập nên, cung cấp các cách định danh sao theo tiêu chuẩn hóa
 
.

Trong phần lớn thời gian hoạt động của nó, một sao chiếu sáng được là do các phản ứng tổng hợp hạt nhân tại lõi của nó, giải phóng năng lượng truyền qua phần bên trong sao và sau đó bức xạ vào không gian bên ngoài. Hầu hết mọi nguyên tố xuất hiện trong tự nhiên nặng hơn heli đều được tạo ra nhờ các ngôi sao, hoặc thông qua quá trình tổng hợp hạt nhân sao trong suốt thời gian hoạt động của nó hoặc bởi tổng hợp hạt nhân siêu tân tinh khi ngôi sao phát nổ. Các nhà thiên văn học xác định được khối lượng, độ tuổi, thành phần hóa học và nhiều tính chất khác của ngôi sao bằng cách quan sát phổ, độ sáng và chuyển động của nó trong không gian. Khối lượng tổng cộng của ngôi sao là yếu tố chính trong quá trình tiến hóa sao và sự tàn lụi của nó. Nhiều đặc trưng khác của một sao được xác định thông qua lịch sử tiến hóa của nó, bao gồm đường kính, sự tự quay, chuyển động và nhiệt độ. Một biểu đồ liên hệ giữa nhiệt độ với độ sáng của nhiều ngôi sao, gọi là biểu đồ Hertzsprung-Russell (biểu đồ H-R), cho phép xác định được tuổi và trạng thái tiến hóa của một ngôi sao


Bầu trời sao

Một sao bắt đầu từ một đám mây co sụp lại của các vật chất với thành phần cơ bản là hiđrô, cùng với heli và một ít các nguyên tố nặng hơn. Một khi nhân của sao đủ đặc, một số hạt nhân hiđrô ngay lập tức biến đổi thành heli thông qua quá trình tổng hợp hạt nhân. Phần còn lại của lớp bên trong ngôi sao mang năng lượng từ lõi ra ngoài thông qua quá trình kết hợp giữa bức xạ và đối lưu. Áp suất bên trong ngôi sao ngăn không cho ngôi sao tiếp tục bị co lại dưới ảnh hưởng của chính lực hấp dẫn của nó. Đến khi nhiên liệu hiđrô tại lõi bị cạn kiệt, các ngôi sao với khối lượng ít nhất bằng 0,4 lần khối lượng của Mặt Trời bắt đầu nở ra để trong một số trường hợp trở thành một sao khổng lồ đỏ tiếp tục đốt cháy các nguyên tố nặng hơn tại lõi sao hoặc tại các lớp vỏ bao quanh lõi. Ngôi sao sau đó bước vào giai đoạn suy biến, tái chế lại một tỷ lệ vật chất vào môi trường không gian liên sao, nơi đây sẽ hình thành lên một thế hệ sao mới với một tỷ lệ cao các nguyên tố nặng


.Ảnh chụp sao đêm

Hệ sao đôi và nhiều sao chứa hai hoặc nhiều ngôi sao có liên kết về lực hấp dẫn với nhau, và nói chung chúng di chuyển quanh nhau theo những quỹ đạo ổn định. Khi hai ngôi sao có quỹ đạo tương đối gần nhau, tương tác hấp dẫn giữa chúng có thể có một ảnh hưởng quan trọng lên quá trình tiến hóa của các ngôi sao.[4] Các sao có thể tập hợp lại thành một cấu trúc liên kết hấp dẫn lớn hơn, như một quần tinh hay một thiên hà.

Đó là định nghĩa chính xác, còn dùng trong ngữ nghĩa khác là do con người, nhóm người, cộng động tự quy định với nhau.
Ví như: Sao là cái chổi, không ai cản tôi khái niệm điều đó cả.

2.Quá trình tiến hóa của các ngôi sao

Vòng đời của một ngôi sao chỉ phụ thuộc vào khối lượng của nó. Mà khối lượng thì chỉ có được sau khi ngôi sao đã hình thành. Do đó về cơ bản, các ngôi sao có quá trình hình thành khá giống nhau dù có những sao có hành tinh, có sao không, có sao lại có các bạn đồng hành tạo thành sao kép, sao chùm trong khi có những sao chỉ đứng cô độc như Mặt Trời của chúng ta. Chỉ sau khi giai đoạn hình thành hoàn tất, các ngôi sao mới thể hiện các tính chất đặc trưng của mình, tương ứng với từng loại sao có khối lượng và thành phần quang phổ khác nhau trên biểu đồ H-R. Dưới đây là vài nét về các giai đoạn chính của vòng đời một ngôi sao:
1- Sao hình thành từ các đám mây khí, bụi (tinh vân - nebula hay tinh vân hành tinh - planetary nebula). Dưới tác dụng của hấp dẫn, chúng co dần lại vào một tâm chung. Các phân tử khí tăng dần vận tốc, cọ xát làm khối khí nóng lên (tiền sao - protostar). Thời kì này kéo dài vài trăm ngàn đến 50 triệu năm.
2- Khi nhiệt độ ở tâm khối khí đủ lớn và lực nén vào tâm tạo ra áp suất đủ lớn (hàng chục triệu độ và atm), các hạt nhân hidro1 kết hợp với nhau tạo ra hạt nhân của các hydro nặng (deutri và triti), các phản ứng giữa các hạt nhân hydro nặng này tiếp tục xảy ra tạo ra hạt nhân Heli4 (phản ứng nhiệt hạch). Phản ứng này giải phóng năng lượng dưới dạng các tia gamma(g) làm cho khối khí phát sáng. Áp suất do năng lượng giải phóng ra cân bằng với lực hấp dẫn làm ngừng quá trình tự co lại của khối khí. Cuộc đời của một ngôi sao bắt đầu.
3- Tùy theo khối lượng sao. Các sao càng nặng càng cần nhiều năng lượng để chống lại hấp dẫn nên các phản ứng hạt nhân diễn ra mạnh mẽ hơn và kết quả là nhiên liệu nhanh bị đốt cháy hết. Do đó tuổi thọ của sao càng nặng thì càng ngắn ngủi.
Các sao như Mặt Trời có tuổi thọ khoảng 10 tỷ năm. Các sao siêu khổng lồ chỉ thọ vài triệu năm, các sao khổng lồ 10- 15 triệu năm còn các sao lùn đỏ là 20 triệu năm.
4- Sau khi hêt nhiên liệu. Ngôi sao không thể tiếp tục chống lại hấp dẫn bản thân. Phần trong co lại về phía lõi còn vỏ ngoài phồng to và phát ra ánh sáng đỏ. Ngôi sao trỏ thành sao khổng lồ đỏ trong khoảng 100 triệu năm (với sao cỡ Mặt Trời) hoặc sao siêu khổng lồ đỏ trong vài triệu năm. Lõi trong co lại và tiếp tục nóng lên. Đây là lúc phản ứng xảy ra kết hợp hạt nhân Heli thành hạt nhân Cacbon. Khi áp suất giải phóng ra cân bằng với hấp dẫn, lõi ngôi sao ngừng co lại.
5- Đối với các sao nhỏ cỡ Mặt Trời, sau quá tình trên, lõi sao có lịa thành sao lùn trắng còn lớp ngoài phóng ra tạo thành tinh vân hành tinh (planetary Nebula)
Với các sao có khối lượng lớn, nhiệt độ ở lõi sẽ tăng đủ lớn dể xảy ra các quá trình tổng hợp hạt nhân tạo ra các nguyên tố nặng như C, O, Mg, Al, P, S,....Fe. Ngôi sao có lõi sắt trong cùng và các nguyên tố nhẹ dần ra phía ngoài.
6- Giai đoạn kết thúc: khi nhiên liệu hoàn toàn cạn kiệt, ngôi sao bước vào thời kì suy sập do hấp dẫn.
_ Các sao có khối lượng < 1,4 lần khối lượng Mặt Trời (giới hạn Chandrasekhar) co laị thành sao lùn trắng và cuối cùng là một sao lùn đen mất hút trong vũ trụ.
_ Các sao khối lượng 1,4 - 1,5 khối lượng Mặt Trời co lại mạnh hơn, vượt qua kích thước sao lùn trắng xuống mức đường kính 20km gây ra một vụ nổ sao siêu mới (super nova). Cuối cùng, khi lực đẩy tĩnh điện giữa các neutron và proton chống lại được lực hấp dẫn, sao ngừng co và trở thành sao neutron.
_ Các sao có khối lượng lớn hơn Mặt Trời 4-5 lần co lại hết sức mạnh mẽ, cũng tạo ra một vụ nổ sao siêu mới. Tuy nhiên do khối lượng lớn, hấp dẫn lớn đến mức làm triệt tiêu lực đây giữa các neutron, tạo thành lỗ đen.
Bây giờ chúng ta hãy thử xét đến trường hopự của Mặt Trời chúng ta. Mặt Trời đã ra đời cách đây chừng 5,1 tỷ năm. Người đầu tiên đưa ra giả thuyết về sự ra đời của hệ Mặt Trời và được công nhận cho đến ngày nay là Laplace. Ông đã cho rằng hệ Mặt Trời ra đời từ một đám khí bụi khổng lồ mà ngày nay chúng ta gọi là tinh vân. Khối khí bụi từ từ quay quanh trục và ở trung tâm khối là một nhân cô đặc. Thể tích khối khí bụi nhỏ dần, co lại do lực hấp dẫn làm nó quay nhanh hơn. Đến một tốc độ quay nhất định, lực ly tâm của vành vật chất ở xích đạo lớn hơn lực hấp dẫn, vành này tách khỏi trung tâm và tiếp tục quay như trước. Khối trung tâm tiếp tục quay nhanh hơn dẫn đến việc tách ra của vành vật chất thứ 2 , thứ 3 .v.v.... Do sự phân bố vật chất trong các vành không đều nên vật chất trong vành dần tích tụ thành phôi thai của hành tinh. Mỗi phôi thai đó lại quay nhanh dần làm tách ra các vành vậtchất tạo thành vệ tinh. Phần khối khí còn lại ở trung tâm tạo thành Mặt trời. Hầu hết các sao trong vũ trụ đều có sự hình thành như Mặt Trời của chúng ta, tuy nhiên khối lượng và thành phần của từng khối khí bụi sẽ làm cho chúng có thể là các sao siêu khổng lồ cho đến những sao lùn đen nhỏ bé, các sao đơn độc và các sao có bạn đồng hành, các ngôi sao có cũng như không có hành tinh quay quanh....
Vậy các đám bụi đó từ đâu mà có? Chúng có mặt khắp nơi trong thiên hà và trong cả các khoảng không vô tận giữa các thiên hà. Ở các thiên hà như thiên hà của chúng ta, tập trung mọt lượng khá lớn khí và bụi tại vùng phụ cận với mặt phẳng đĩa của thiên hà. mật độ của các đám khí và bụi này nói chung là rất nhỏ, chúng không ngững chuyển động hỗn độn trong vùng mặt phẳng đĩa này. Khi một khối lượng khí nhất định "vô tình" đến gần nhau và hấp dẫn lẫn nhau, chúng co lại để đạt đến một mật độ lớn hơn rất nhiều, sự cọ xát giữa chúng bắt đầu sinh ra nhiệt và khi đó chúng bắt đầu được gọi là các tinh vân (nebul).


Bốn hành tinh bên ngoài, hay bốn hành tinh khí khổng lồ (hoặc các hành tinh kiểu Mộc Tinh), chiếm tới 99 tổng khối lượng của các thiên thể quay quanh Mặt Trời. Sao Mộc và Sao Thổ là hai hành tinh lớn nhất vàchứa đại đa số hiđrô và heli; Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương có khối lượng nhỏ hơn (<20 lần khối lượng Trái Đất) và trong thành phần của chúng chứa nhiều băng hơn. Vì lí do này, một số nhà thiên văn họccho rằng chúng thuộc về một lớp "hành tinh băng đá khổng lồ". Bốn hành tinh khí khổng lồ đều có hệ vành đai, mặc dù chỉ có vành đai của Sao Thổ là có thể quan sát được từ Trái Đất qua các kính thiên văn nghiệp dư. Thuật ngữ hành tinh bên ngoài không nên nhầm lẫn với thuật ngữ hành tinh trên, ám chỉ các hành tinh nằm bên ngoài quỹ đạo của Trái Đất trong đó bao gồm Sao Hỏa và các hành tinh bên ngoài.

3. Các loại sao phổ biến

      Sao Mộc

Sao Mộc (khoảng cách đến Mặt Trời 5,2 AU), với khối lượng bằng 318 lần khối lượng Trái Đất và bằng 2,5 lần tổng khối lượng của 7 hành tinh còn lại trong Thái Dương Hệ. Mộc Tinh có thành phần chủ yếu hiđrô và heli Nhiệt lượng khổng lồ từ bên trong Sao Mộc tạo ra một số đặc trưng bán vĩnh cửu trong bầu khí quyển của nó, như các dải mây và Vết đỏ lớn  .Sao Mộc có 63 vệ tinh đã biết. Bốn vệ tinh lớn nhất, Ganymede, Callisto, Io, và Europa (các vệ tinh Galileo) có các đặc trưng tương tự như các hành tinh đá, như núi lửa và nhiệt lượng từ bên trong.[ Ganymede, vệ tinh tự nhiên lớn nhất trong hệ Mặt Trời, có kích thước lớn hơn Sao Thủy.
Sao Mộc còn có tên gọi là Jupiter.01



Sao Mộc .02


Sao Mộc. 03


Sao Thổ

Sao Thổ (khoảng cách đến Mặt Trời 9,5 AU), có đặc trưng khác biệt rõ rệt đó là hệ vành đai kích thước rất lớn, và những đặc điểm giống với Sao Mộc, như về thành phần bầu khí quyển và từ quyển. Mặc dù thể tích của Thổ Tinh bằng 60% thể tích của Mộc Tinh, nhưng khối lượng của nó chỉ bằng một phần ba so với Mộc Tinh, hay 95 lần khối lượng Trái Đất, khiến nó trở thành hành tinh có mật độ nhỏ nhất trong hệ Mặt Trời (nhỏ hơn cả mật độ của nước lỏng). Vành đai Sao Thổ chứa bụi cũng như các hạt băng và đá nhỏ.
Vành đai sao thổ.01


Sao Thổ.02


Sao Thổ có 62 vệ tinh tự nhiên được xác nhận; hai trong số đó, Titan và Enceladus, cho thấy có các dấu hiệu của hoạt động địa chất, mặc dù đó là các núi lửa băng Titan, vệ tinh tự nhiên lớn thứ hai trong Thái Dương Hệ, cũng lớn hơn Sao Thủy và là vệ tinh duy nhất trong hệ Mặt Trời có tồn tại một bầu khí quyển đáng kể.

Sao Thổ .03

Sao Thổ.04


Sao Thiên Vương
Sao Thiên Vương (khoảng cách đến Mặt Trời 19,6 AU, khối lượng bằng 14 lần khối lượng Trái Đất, là hành tinh bên ngoài nhẹ nhất. Trục tự quay của nó có đặc trưng lạ thường duy nhất so với các hành tinh khác, độ nghiêng trục quay trên 90 độ so với mặt phẳng hoàng đạo. Thiên Vương Tinh có lõi lạnh hơn nhiều so với các hành tinh khí khổng lồ khác và nhiệt lượng bức xạ vào không gian cũng nhỏ.
Sao Thiên Vương có 27 vệ tinh tự nhiên đã biết, lớn nhất theo thứ tự từ lớn đến nhỏ là Titania, Oberon, Umbriel, Ariel và Miranda

Sao Thiên Vương .01



Sao Thiên Vương .02


Sao Thiên Vương .03



Sao Hải Vương


Sao Hải Vương (khoảng cách đến Mặt Trời 30 AU), mặc dù kích cỡ hơi nhỏ hơn Sao Thiên Vương nhưng khối lượng của nó lại lớn hơn (bằng 17 lần khối lượng của Trái Đất) và do vậy khối lượng  riêng lớn hơn. Nó cũng bức xạ nhiều nhiệt lượng hơn nhưng không lớn bằng của Sao Mộc hay Sao Thổ

Sao Hải Vương



Sao Hải Vương .02



Hải Vương Tinh có 13 vệ tinh tự nhiên đã biết. Triton là vệ tinh lớn nhất vầ còn sự hoạt động địa chất với các mạch phun nitơ lỏng Triton cũng là vệ tinh tự nhiên duy nhất có qũy đạo nghịch hành. Trên cùng quỹ đạo của Sao Hải Vương cũng có một số hành tinh vi hình (en:minor planet), gọi là Trojan của Sao Hải Vương (en:Neptune Trojan), chúng cộng hưởng quỹ đạo 1:1 với Hải Vương Tinh.


Sao Hải Vương .03



Hải Vương Tinh


Sao chổi ( Sao chổi Hale-Bopp )



Sao chổi là các vật thể nhỏ trong Thái Dương Hệ, đường kính điển hình chỉ vài kilômét, thành phần chủ yếu là những hợp chất băng dễ bay hơi. Chúng có độ lệch tâm quỹ đạo khá lớn, đa phần có điểm cận nhật nằm bên trong quỹ đạo của các hành tinh bên trong và điễm viễn nhật nằm bên ngoài Pluto. Khi một sao chổi đi vào vùng hệ Mặt Trời bên trong, do đến gần Mặt Trời hơn làm cho bề mặt băng của nó chuyển tới trạng thái thăng hoa và ion hóa tạo ra một dải bụi và khí dài thoát ra từ nhân sao chổi, hay là đuôi sao chổi, và có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
Sao chổi chu kỳ ngắn có chu kỳ nhỏ hơn 200 năm. Sao chổi chu kỳ dài có chu kỳ hàng nghìn năm. Sao chổi chu kỳ ngắn được tin là có nguồn gốc từ vành đai Kuiper trong khi các sao chổi chu kỳ dài như Hale-Bopp, nó được cho là có nguồn gốc từ đám mây Oort. Nhiều nhóm sao chổi, như nhóm sao chổi Kreutz, hình thành từ sự tách vỡ của sao chổi lớn hơn. Một số sao chổi có quỹ đạo hyperbol có nguồn gốc từ ngoài Hệ Mặt Trời và vấn đề xác định chu kỳ quỹ đạo chính xác của chúng là việc khó khăn. Một số sao chổi trước đây có các chất dễ bay hơi ở bề mặt bị thổi ra ngoài bởi gió Mặt Trời ấm được xếp loại vào tiểu hành tinh.


Sao Thổ .01


Sao Thổ .02


Sao Thổ .03


Sao Thổ .04






Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

Vài nét về cuộc đời của S.Ha­wking

Vài nét về cuộc đời của  S.Ha­wking
Trả lời :

I.  Đôi nét về của S.Hawking

Stephen William Hawking là một nhà vật lý người Anh. Trong nhiều thập kỉ, ông được coi là ông hoàng vật lý lý thuyết của thế giới. Hawking hiện là giáo sư Lucasian, chức danh dành cho giáo sư toán học của Đại học Cambridge. Từng đảm nhiệm vị trí này là những nhà khoa học xuất chúng như Isaac Newton và Paul Dirac.

Tiểu sử

Hawking sinh ngày 8 tháng 1 năm 1942, tại Oxford Anh quốc đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo. Cha mẹ ông là Frank và Isobel Hawking, trước Đệ nhị thế chiến họ sống ở miền bắc Luân Đôn nhưng sau đó chuyển đến Oxford cho an toàn. Hai năm cuối ở trung học St Albans, Oxford, Hawking rất thích thú với môn toán vì có cảm hứng từ một người thầy ở trường này. Nhưng cha ông, một dược sỹ lại phản đối ý kiến của con trai mà muốn ông học ngành hóa họ. Một phần bị thuyết phục bởi người cha, sau khi tốt nghiệp, Hawking theo học University College ở Oxford, đây chính là trường mà cha ông từng theo học trước đây. Nhưng trường này không có ngành toán, chính vì thế mà ông theo học ngành vật lý và tốt nghiệp loại xuất sắc. Sau đó ông chuyển đến Đại học Cambridge để tiếp tục theo đuổi luận án tiến sỹ về vũ trụ học.

Trong thời gian làm luận án, người ta phát hiện ra Hawking bị mắc một chứng bệnh về thần kinh có tên là bệnh Lou Gehrig làm ông gần như mất hết khả năng cử động,luôn phải gắn chặt vào xe lăn. Ngoài ra, sau lần phẫu thuật cắt khí quản, ông chỉ có thể nói được nhờ một thiết bị phát âm gắn với một máy tính được ông gõ chữ vào đó. Các bác sỹ cho rằng ông không sống lâu để có thể hoàn thành luận án tiến sỹ. Năm 1965, Hawking kết hôn với Jane Wilde, một sinh viên ngôn ngữ. Hawking cho rằng đây là một bước ngoặt trong cuộc đời ông. Kết quả là ông đã hoàn thành luận án vào năm 1966. Lúc bấy giờ, chưa có ai nghiên cứu về ngành khoa học này ở đại học Cambridge. Người hướng dẫn của ông là Denis Sciama chứ không phải là người mà ông trông đợi là Fred Hoyle. Bảo vệ luận án tiến sỹ xong, ông làm nghiên cứu một thời gian cho viện Thiên văn học rồi chuyển đến khoa Toán học ứng dụng và Vật lý lý thuyết của Cambridge (năm 1977) và làm việc từ đó cho đến ngày nay.
Năm 1990, ông đã nhận một cô bé người Việt sinh năm 1980 là Nguyễn Thị Thu Nhàn đang sống tại làng trẻ em SOS Hà Nội làm con nuôi, và ông đã sang Việt Nam năm 1997 để thăm cô.
Tháng 4 năm 2010, ông đã phát biểu một bài diễn văn về người ngoài hành tinh . Ông nghĩ rằng người ngoài hành tinh là có thật và nếu như họ đến Trái Đất thì chúng ta nên tránh tiếp xúc với họ vì họ sẽ giống như người Châu Âu ngày xưa khám phá ra Châu Mĩ (là Trái Đất). Họ sẽ xâm lăng và đô hộ Trái Đất nhằm mục đích lấy tài nguyên đã cạn kiệt ở hành tinh họ.
Hawking kết hôn hai lần, lần đầu năm 1965 với Jane Wilde. Hai người sống với nhau đến năm 1990 thì ly thân. Họ có ba người con là Robert, Lucy, và Timothy. Năm 1995, Hawking kết hôn với trợ lý chăm sóc cá nhân của mình là Elaine Mason. Đến tháng 10 năm 2006, họ ly dị. Năm 1999, Jane Hawking xuất bản cuốn hồi ký "Music to move the Stars", miêu tả chi tiết cuộc hôn nhân và các sự cố của nó.Năm 2010, Jane xuất bản một phiên bản sửa đổi là "Travelling to Infinity, My Life with Stephen".
Về căn bệnh của Hawking, các bác sĩ cho rằng bệnh của ông tiến triển khá chậm so với các trường hợp thông thường. Hawking nói đó là một sự may mắn. Quả thật, căn bệnh cũng không mấy cản trở sự nghiệp nghiên cứu khoa học miệt mài của Hawking. Hiện tại, nhà khoa học có thể sử dụng má của mình để nhập dữ liệu vào một máy tính kết nối đến não, qua đó xây dựng các câu nói hoàn chỉnh, thậm chí là những bài diễn văn.
.
Sự nghiệp nghiên cứu khoa học

Lĩnh vực chính của Hawking là nghiên cứu lý thuyết vũ trụ học và hấp dẫn lượng tử. Năm 1971, ông đưa ra các công trình toán học ủng hộ cho lý thuyết Vụ nổ lớn về nguồn gốc vũ trụ: nếu lý thuyết tương đối rộng là đúng thì vũ trụ cần phải có một điểm kì dị, một điểm khởi đầu trong không thời gian. Ông còn cho rằng, sau Vụ nổ lớn, các hố đen nguyên thủy hoặc các hố đen siêu nhỏ được hình thành. Ông chứng minh rằng diện tích bề mặt của hố đen không bao giờ giảm, rằng tồn tại một giới hạn trong quá trình phát xạ khi các hố đen va vào nhau, và rằng một hố đen không thể bị tách thành hai hố đen riêng biệt. Năm 1974, các tính toán của ông cho thấy các hố đen có thể tạo và phát ra các hạt hạ nguyên t cho đến khi chúng cạn kiệt năng lượng và bị nổ tung. Lần đầu tiên ông đưa ra bức xạ Hawking có liên quan đến sự hấp dẫn, cơ học lượng tử và nhiệt động lực học. Năm 1981, Hawking cho rằng vũ trụ không có biên nhưng lại hữu hạn trong không thời gian và năm 1983 ông đã chứng minh điều này bằng toán học.
Trong năm 2007, Hawking đã làm một chuyến bay không trọng lượng trong tàu "Vomit Comet". Ông trở thành mgười liệt tứ chi đầu tiên trải nghiệm sự trôi nổi trong môi trường không trọng lượng. Trước chuyến bay Hawking nói: "Nhiều người đã hỏi tôi tại sao tôi đang tham gia chuyến bay này, tôi làm nó vì nhiều lý do. Trước hết, tôi tin rằng cuộc sống trên Trái đất có nguy cơ bị xóa sổ ngày càng tăng bởi một thảm họa như chiến tranh hạt nhân bất ngờ, một loại virus biến đổi gen, hoặc các nguy cơ khác. Tôi cho rằng loài người sẽ không có tương lai nếu không đi vào không gian. Vì vậy, tôi muốn khuyến khích sự quan tâm của công chúng với không gian".

 II.  Cuộc đời và sự nghiệp của Ông

1. Lực học trung bình trên lớp Chúng ta đều thấy rằng Hawking có một trí tuệ tuyệt vời, chỉ số IQ lên tới 160 (bằng với thiên tài Albert Einstein). Chỉ có một phần rất nhỏ dân số đạt được mức IQ này. Tuy nhiên nếu biết đến quãng thời gian đi học của ông thì có thể bạn sẽ ngạc nhiên. Thực tế rằng khi 9 tuổi, kết quả học tập của ông chỉ đứng ở phần cuối lớp. Lên các lớp trên có sự tiến bộ hơn nhưng không nhiều. Vấn đề không nằm ở trí tuệ mà có vẻ do sự trễ nải của ông. Không thực sự tập trung vào học tập nhưng ngay từ bé ông đã quan tâm đến cách mà mọi công cụ hoạt động. Ông thường xuyên mày mò tháo rời radio, đồn hồ để nghiên cứu những bộ phận nhỏ. Thú vị là ông thừa nhân mình không giỏi trong việc đưa chúng về trạng thái ban đầu. Và mặc dù điểm số không tốt nhưng cả giáo viên và bạn bè đều thấy được tố chất thiên tài của ông. Biệt danh của ông ở trường là “Einstein”. Cha ông muốn cho ông vào học ở Oxford nhưng không có học bổng và điểm số thì lại quá bình thường. Cuối cùng thì ông cũng được nhận bởi điểm số tuyệt vời trong bài kiểm tra vật lý
.
 2. Không thích lĩnh vực sinh vật học Cha của Stephen Hawking – một dược sĩ đã từng có mong muốn ông sẽ đi theo con đường nghiên cứu y học. Tiếc rằng, ở trường đại học, ông lại tỏ ra thích thú với chuyên ngành sinh học. Ông không quan tâm nhiều đến sinh học hay y khoa, ông cảm thấy nó “không chính xác và quá đi vào mô tả”. Và ông đã tập trung cho lĩnh vực phù hợp với tư tưởng của mình hơn. Xảy ra một vấn đề là đại học Oxford của ông không đi sâu nhiều trong lĩnh vực toán học nên ông đã chuyển sang ngành vật lý. Với chuyên ngành này, Hawking cũng có sự đào sâu vào nghiên cứu vật lý vũ trụ dù ngành này chưa thực sự được công nhận trong thời điểm đó. Sau khi nhân được bằng tốt nghiệp xuất sắc ở Oxford, ông chuyển đến Đại học Cambridge để tiếp tục theo đuổi luận án tiến sỹ về vũ trụ học.

 3 Đã từng ở trong đội tuyển Rowing của Oxford Trong những trang viết của mình, nhà viết tiểu sử Kristine Larsen đã đề cập đến những khó khăn mà Hawking phải đối mặt trong quãng thời gian đầu đại học. Một trong số đó là sự cô đơn và chưa hòa nhập được. Và để thoát ra tình trạng đó, ông đã tham gia vào đội Rowing (chèo thuyền) của trường. Sự việc này diễn ra trước khi ông bị chẩn đoán mắc căn bệnh quái ác. Nhưng từ bé đến quãng thời gian đại học ông cũng chưa bao giờ thực sự tham gia một môn thể thao nào. Có thể vì ông không thích và một phần cũng do ngoại hình bé nhỏ của mình. Tuy nhiên, đội Rowing lại cần một vị trí dẫn đầu (coxswains), có nhiệm vụ kiểm soát, chỉ đạo và ông đã được nhận. Ở môi trường đại học, thể thao rất phát triển và chiếm một tầm ảnh hưởng khá lớn. Trong vai trò của mình, đã có nhiều người nhớ đến Hawking và đồng đội thường nhắc đến ông như một người “thích phiêu lưu mạo hiểm”. Tuy nhiên việc tham gia cũng làm ảnh hưởng đến việc học tập của ông không ít khi hải sử dụng đến 6 buổi chiều mỗi tuần cho việc tập luyện.
 4. Biết mình chỉ còn sống được vài năm khi ở tuổi 21 Sau khi tốt nghiệp, Hawking bắt đầu làm luận án, thời gian này ông bắt đầu gặp một số triệu chứng như hay vấp ngã, khó cử động. Gia đình đã nhận thấy điều đó khi ông về thăm nhà vào dịp Giáng Sinh. Sau đó ông đã được đưa đến bác sĩ. Trong thời gian chờ đợi kết quả, ông đã gặp vợ tương lai của mình – Jane Wilde. Cô gái ngay lập tức đã bị thu hút bởi tính độc lập và hài hước của chàng trai. Họ bắt đầu hẹn hò. Bước qua tuổi 21, Hawking nhận được kết quả rằng ông mắc một loại bệnh vô phương cứu chữa. Đó là Bệnh xơ cột bên teo cơ còn được gọi là bệnh Lou Gehrig (ASL). Triệu chứng của bệnh là 4 cơ bị teo và mất đi sức lực, có lúc bệnh còn tái phát ở miệng và vùng họng. Cơ thịt của những người bị bệnh sẽ dần dần mất đi sức lực và có thể dẫn đến bị liệt, khả năng nói, nuốt và hô hấp cũng yếu đi đến khi không còn khả năng hô hấp dẫn đến chết. Ông được chẩn đoán là chỉ sống thêm được vài năm nữa và sẽ không thể hoàn thành được luận án tiến sĩ. Đây là một cú shock quá lớn với một chàng trai đầy nhiệt huyết và tham vọng như Hawking. Ông đã suy sụp trong một thời gian, nhưng khi nhìn thấy một cậu bé chết vì ung thư máu trong bệnh viện ông đã nhận ra rằng còn nhiều người kém may mắn hơn mình. Chàng trai trẻ đã lấy lại sự lạc quan, ông tiếp tục hẹn hò với Jane và họ đã nhanh chóng đính hôn. Đối với Hawking, đây chính là động lực lớn nhất để tiếp tục sống.


5. Góp phần tạo ra lý thuyết vũ trụ vô biên Một trong những thành tựu lớn nhất mà Hawking đạt được trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học của mình là việc góp phần chứng minh lý thuyết vũ trụ vô biên nhưng lại hữu hạn trong không thời gian. Ông đã chứng minh được điều này vào năm 1983. Cùng với cộng sự của mình là Jim Hartle, Stephen Hawking đã kết hợp các khái niệm lượng tử cơ học, dao động lượng tử, biến động vi mô để chứng minh rằng vũ trụ là một thực thể vô biên. Giải thích về khái niệm này, ông so sánh vũ trụ có hình dạng giống như một quả bóng trên phương diện về diện tích, nếu đo diện tích bề mặt quả bóng thì ta sẽ có số đo cụ thể, nhưng chúng ta không xác định một biên nào trên bề mặt của quả bóng đó vì mọi điểm trên quả bóng đó đều y hệt như nhau. Tuy nhiên một trong những khác biệt là bề mặt trái đất hai chiều trong khi vũ trụ là bốn chiều (bản thân trái đất là ba chiều nhưng bề mặt hai chiều). Ông còn đặt ra nhiều vấn đề về không thời gian, nhiều vấn đề chưa có lời giải đáp chính xác hoặc sự chứng minh xác đáng vì vũ trụ còn nhiều bí ẩn chưa được khám phá. Tuy nhiên, những suy luận của ông đã tạo ra những hướng mới trong công cuộc nghiên cứu vũ trụ.


  III.  Chùm ảnh: Cuộc đời nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking


Dù bị bại liệt toàn thân và phải ngồi trên xe lăn nhưng nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking đã được cả thế giới biết đến với các công trình nghiên cứu về vũ trụ và trọng lực học.

 


Stephen Hawking sinh ngày 8/1/1942, tại Oxford, Anh. Đây là bức ảnh Hawking (trái) hồi nhỏ chụp chung với em gái Mary.



Hawking (trái) năm 12 tuổi trong khu vườn của gia đình ở St Alban, phía bắc London và năm 1962 khi tốt nghiệp đại học Oxford.

Hawking kết hôn với Jane Wilde năm 1965. Ông bị phát hiện mắc một căn bệnh về thần kinh có tên là bệnh Lou Gehrig năm 21 tuổi, ngay trước khi kết hôn. Các bác sĩ khi đó nói rằng ông không thể sống quá 2 hoặc 3 năm. Hawking dần dần mất khả năng cử động chân, tay, mất khả năng nói và sau đó bị bại liệt toàn thân.

Stephen Hawking cùng Jane và con trai Tim sau khi được trao học vị danh dự tại đại học Cambridge. Cuộc hôn nhân đầu của Hawking chấm dứt năm 1991. Hawking và Jane có 3 người con.

Năm 1995, ông cưới người vợ thứ 2 là Elaine Mason. Chồng cũ của Elaine chính là nhà khoa học David Mason, người đã thiết kế máy tạo giọng nói cho Hawking. Nhưng tháng 12/2006, Mason và Hawking đã ly hôn.

Stephen Hawking trong một bức ảnh năm 1996. Dù bị bại liệt toàn thân và phải ngồi trên xe lăn suốt nhiều năm nhưng Hawking vẫn đam mê nghiên cứu khoa học.

Hawking tại trung tâm Toán học ứng dụng và Vật lý lý thuyết của Đại học Cambridge năm 2001. Ông công tác tại đây từ năm 1977 cho đến nay. 


Ông nổi tiếng với các nghiên cứu về lý thuyết vũ trụ học và hấp dẫn lượng tử.
Stephen Hawking tiếp kiến Nữ hoàng Anh Elizabeth II tại phòng hòa nhạc của Cung điện Buckingham năm 2006.
Giáo sư Hawking trải nghiệm cảm giác không trọng lượng trên độ cao 10.000 mét tháng 4/2007.


Stephen Hawking công bố chiếc đồng hồ không kim, không số Corpus Clock do nhà phát minh người Anh John Taylor sáng chế.

Sự Tích Ngưu Lang Chức Nữ

Ngưu Lang - Chức Nữ hay Ông Ngâu - Bà Ngâu là câu truyện cổ tích. Có hai phiên bản, một của Việt Nam và một của Trung Quốc. Truyện cổ tích này có liên quan đến các sao Chức Nữ (Vega) và sao Ngưu Lang (Altair), dải Ngân Hà và hiện tượng mưa ngâu diễn ra vào đầu tháng Bảy âm lịch ở Việt Nam. Trong truyện cổ tích Trung Quốc cũng có nhắc tới Ngưu Lang (牛郎) và Chức Nữ (織女) nhưng nội dung câu chuyện cũng như các dị bản thì không giống với truyện của Việt Nam.

Phiên bản Việt Nam
Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng Thượng đế, vì say mê một tiên nữ phụ trách việc dệt vải tên là Chức Nữ nên bỏ bễ việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Chức Nữ cũng vì mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên trễ nải việc dệt vải. Ngọc Hoàng giận giữ, bắt cả hai phải ở cách xa nhau, người đầu sông Ngân, kẻ cuối sông. Sau đó, Ngọc Hoàng thương tình nên ra ơn cho hai người mỗi năm được gặp nhau một lần vào đêm ngày 15 tháng Bảy âm lịch. Khi tiễn biệt nhau, Ngưu Lang và Chức Nữ khóc sướt mướt. Nước mắt của họ rơi xuống trần hóa thành cơn mưa và được người dưới trần gian đặt tên là mưa ngâu. Thời bấy giờ sông Ngân trên thiên đình không có một cây cầu nào cả nên Ngọc Hoàng mới ra lệnh cho làm cầu để Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau. Các phường thợ mộc ở trần thế được vời lên trời để xây cầu. Vì mạnh ai nấy làm, không ai nghe ai, họ cãi nhau chí chóe nên đến kỳ hạn mà cầu vẫn không xong. Ngọc Hoàng bực tức, bắt tội các phường thợ mộc hóa kiếp làm quạ lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Vì thế cứ tới tháng bảy là loài quạ phải họp nhau lại để chuẩn bị lên trời bắc Ô kiều. Khi gặp nhau, nhớ lại chuyện xưa nên chúng lại lao vào cắn mổ nhau đến xác xơ lông cánh. Ngưu Lang và Chức Nữ lên cầu, nhìn xuống thấy một đám đen lúc nhúc ở dưới chân thì lấy làm gớm ghiếc, mới ra lệnh cho đàn chim ô thước mỗi khi lên trời làm cầu thì phải nhổ sạch lông đầu. Từ đó, cứ tới tháng bảy thì loài quạ lông thì xơ xác, đầu thì rụng hết lông. Tuy nhiên sau một thời gian vì cảm thương cho sự chia lìa của cặp vợ chồng,Ngọc Hoàng đã trả lại hình hài cho những người thợ mộc và ra lện họ phải làm một cây cầu thật vững chắc để Ngưu Lang và Chức Nữ có thể gặp nhau.Từ đó, Ngưu Lang và Chức Nữ được sống bên nhau Có lẽ do tích này mà vùng Bình Định (miền Trung Việt Nam) có từ "quạ làm xâu" nói về những con quạ vắng đi đâu một thời gian rồi trở về với cái đầu trọc lóc trong rất khôi hài Có dị bản khác cho rằng tên gọi của Ô kiều là cầu Ô Thước do chim Ô (quạ) và chim Thước (chim Khách) kết cánh tạo ra.[1]

 Phiên bản Trung Quốc

Chàng chăn bò trẻ tuổi có tên gọi Ngưu Lang (牛郎 - tức sao Altair hay chàng chăn bò, là sao Ngưu Lang) nhìn thấy bảy cô tiên xinh đẹp đang tắm trong hồ và đang đùa giỡn vui vẻ với nhau. Được cổ vũ bởi người bạn đồng hành tinh quái là một con bò đực, chàng đã lấy trộm váy áo của họ và chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. Các nàng tiên đã cử cô em út và xinh đẹp nhất có tên gọi là Chức Nữ (織女 - tức sao Vega hay nàng tiên dệt vải) ra để lấy lại váy áo. Nàng đành phải làm theo, nhưng do Ngưu Lang đã nhìn thấy thân thể trần tục của Chức Nữ nên nàng đành chấp thuận lời cầu hôn của chàng (đúng như câu "Nam nữ thụ thụ bất thân" của lễ giáo phong kiến). Nàng đã chứng tỏ mình là một người vợ tuyệt vời, còn Ngưu Lang là một người chồng tốt và họ đã sống bên nhau hạnh phúc. Nhưng Thiên Hậu (trong một số dị bản là mẹ Chức Nữ) nhận ra rằng một kẻ tầm thường (tức Ngưu Lang) lại dám cưới một nàng tiên đẹp và bà đã điên tiết (trong các dị bản khác, Thiên Hậu bắt Chức Nữ quay lại làm công việc dệt các đám mây ngũ sắc trên bầu trời vì nàng đã không làm công việc đó kể từ khi lấy chồng). Rút cái kẹp tóc của nàng ra, Thiên Hậu đã vạch ra một con sông rộng trên bầu trời để chia cắt đôi tình lang mãi mãi (vì thế tạo ra sông Ngân và trên thực tế người ta nhìn thấy các sao Ngưu Lang và Chức Nữ nằm ở hai bên của dải Ngân Hà).
Chức Nữ phải vĩnh viễn ngồi trên một bờ sông, buồn bã dệt vải, còn Ngưu Lang chỉ nhìn thấy vợ mình từ xa và phải chịu trách nhiệm nuôi hai con (tức hai ngôi sao bên cạnh nó là Aquila -β và -γ).
Nhưng có một ngày, tất cả các con quạ cảm thấy thương hại họ và chúng bay lên trời để làm cầu (\, "Ô kiều") phía trên sao Deneb trong chòm sao Cygnus để đôi vợ chồng có thể gặp nhau trong một đêm, là đêm thứ bảy của tháng Bảy âm lịch.Tuy nhiên vì thương tiếc cho đôi vợ chồng Ngọc Hoàng đã đặc xá cho Ngưu Lang và Chức Nữ mỗi tháng được gặp nhau một lần và đồng thời cũng trong thời gian đó Ngưu Lang đã tìm được quả "Hoa Tiên" (là quả mà Hằng Nga đã từng ăn)vì vậy Ngọc Hoàng cùng với Vương Mẫu đã cho Ngưu Lang và chức Nữ cùng ở bên nhau nuôi con mãi mãi không bao giờ chia lìa. Truyền thuyết này có thể là gốc cho thành ngữ tắm tiên




Vũ trụ được cấu tạo tữ những thiên thể nào ?

Vũ trụ được cấu tạo từ những thiên thể nào ?
Trả lời:
1. Tinh vân Thành phần cơ bản tạo nên tinh vân là những khối bụi, khí và plasma khổng lồ. Với chiều rộng có thể lên đến hàng năm ánh sáng, những "đám mây dơ dáy" này như những dải ngân hà trôi giạt trong vũ trụ, kéo theo những hành tinh và tinh cầu "con cháu" bám vào những góc cạnh đang nguội dần đi của chúng. Bằng kính viễn vọng loại lớn, người ta có thể quan sát được những tinh vân nằm rải rác trong vũ trụ. Hình dạng của chúng rất đa dạng: hình đầu ngựa, hình con cua hay hình trụ. Còn có "tinh vân tối" - được mệnh danh là "kẻ thô lỗ" - là đám mây khí trôi giạt vô định và có những chỗ dày đặc đến mức che khuất hoàn toàn ánh sáng ở phía sau chúng.
 2. Sao băng Khi những tinh cầu hết năng lượng, chúng không kết thúc theo kiểu lập loè sáng rồi tắt lịm; mà ngược lại, chúng tạo nên những vụ nổ cực lớn, làm bắn ra tầng tầng lớp lớp khí vào rất xa trong vũ trụ. Thật may mắn cho cư dân Trái đất chúng ta được chiêm ngưỡng hiện tượng kỳ thú này từ một khoảng cách rất an toàn. Sau đó, những lớp khí này lại tập hợp lại, tạo nên những tinh cầu mới trong chu trình sinh tử kéo tới dài hàng tỷ năm. Khi đó, từ cách xa hàng tỷ dặm, các nhà thiên văn học của chúng ta sẽ chỉ cần làm một việc đơn giản là kiểm tra sự xuất hiện của một ngôi sao băng khác trong Hệ mặt trời ở Dải Ngân hà.
3. Vi sóng vũ trụ Trong quá trình nghiên cứu vũ trụ, các nhà khoa học đã phát hiện ra cái gọi là vi sóng vũ trụ, nhưng không thể giải thích được sự tồn tại của hiện tượng này. Một giả thuyết cho rằng vi sóng vũ trụ là bức xạ còn sót lại từ một vụ nổ cực lớn dẫn đến sự hình thành vũ trụ, xảy ra từ rất lâu, được đặt tên là Big Bang (Vụ nổ Lớn). Như vậy, câu hỏi về vi sóng vũ trụ lại trở về câu hỏi về hiện tượng vốn được xem là cốt lõi sự hình thành của vũ trụ.
 4. Năng lượng tối Chỉ cách đây không lâu, giới khoa học mới phát hiện ra vũ trụ đang mở rộng. Nghiên cứu sâu hơn cho thấy tốc độ mở rộng của vụ trụ nhanh chậm theo từng thời kỳ. Lời giải thích duy nhất có thể cho hiện tượng này là một dạng năng lượng thần bí, vô hình mà người ta gọi là "năng lượng tối". Theo các chuyên gia trong lĩnh vực này, có một từ trường không đều trải rộng trong vũ trụ, ở một số nơi, tốc độ mở rộng của từ trường này chậm hơn ở những nơi khác, dẫn đến hiện tượng vũ trụ mở rộng với tốc độ không giống nhau. Mô hình vũ trụ đang mở rộng khiến một số người cho rằng "ngày tàn của vũ trụ" có thể đến nhanh hơn dự kiến. Người ta đặt tên cho nó là Big Freeze (Vụ đóng băng lớn), tức là nếu vũ trụ cứ tiếp tục mở rộng, mọi vật sẽ ngày càng tách xa nhau cho đến lúc trôi vào vô định.
 5. Vật chất tối Nảy ra ý tưởng thống kê vũ trụ, một số nhà khoa học trên thế giới đã bắt tay vào việc tính toán tổng trọng lượng của vũ trụ. Nhưng khi họ đã tập hợp đủ số liệu về trọng lượng của tất cả những gì có trong vũ trụ, kể cả Hành tinh Xanh của chúng ta, kết quả của phép cộng ấy lại không hề tăng lên. Sau đó, một nhà vật lý học thiên thể người Thuỵ Sĩ tên là Fritz Zwicky đưa ra giả thuyết rằng phần lớn vũ trụ được tạo thành bởi một loại chất bí ẩn không thể nhìn thấy hoặc đo đếm bằng những công nghệ mà con người đang sở hữu. Nhà khoa học này gọi chất bí ẩn đó là "vật chất tối".
 6. Neutrino Bên trong những tinh cầu nóng, sức nóng và áp suất khiến tất cả các loại phân tử bay vòng quanh và va chạm vào nhau. Từ "bát súp tinh cầu" đó đã bắn ra thứ nhỏ nhất trong số những thứ đã được nhân loại biết đến - đó là neutrino. Thoát ra từ tinh cầu, neutrino phát tán khắp nơi trong vũ trụ. Với hàng tỷ tinh cầu có trong vũ trụ thì cũng có vô số neutrino đang bay lượn trong vũ trụ.
 7. Chuẩn tinh Chuẩn tinh là một trong những thứ mạnh nhất trong vũ trụ, bao gồm những hố đen khổng lồ nằm ở trung tâm của một số trong những thiên hà già nhất viền quanh vũ trụ. Rất nhiều thiên thể bị hút vào đó và vỡ thành những mảnh nhỏ li ti, giải phóng ra một lượng năng lượng khổng lồ. Khối năng lượng này dần dầnthâm nhập vào không gian và hàng tỷ năm sau được tìm thấy trên Trái đất như là sóng vô tuyến.
8. Tinh cầu neutron Khi một tinh cầu chết đi, nó sẽ đổ ập vào phía trong, làm bắn ra các electron và proton. Ở khoảng cách quá nhỏ, các electron và proton lại hợp lại với nhau tạo thành các neutron. Quá trình đó có thể mô tả như việc nén một vật khổng lồ như Trái đất của chúng ta thành một quả bóng có đường kính chỉ khoảng 160 km. Có thể nói các tinh cầu neutron này là vật thể đậm đặc nhất trong vũ trụ.
9. Ẩn tinh Không thể được nhìn thấy bằng mắt thường, ẩn tinh là "họ hàng" gần của tinh cầu neutron. Những tinh cầu chết này quay tròn với tốc độ ngoài sức tưởng tượng và phát ra lượng phóng xạ khổng lồ. Chúng có từ trường mạnh gấp một nghìn tỷ lần từ trường của Trái đất.
10. Hố đen Hố đen không phải là "sản phẩm" của các tác giả viết truyện khoa học viễn tưởng. Đó là những tinh cầu già, đã nguội rất nhiều và dày đặc và thu nhỏ một cách đáng kinh ngạc đến mức mà lực hấp dẫn của chúng có thể hút bất cứ thứ gì xung quanh, kể cả ánh sáng. Theo một số nhà khoa học, tên gọi "hố đen" có thể chưa chính xác khi bất cứ tia sáng nào xuất hiện gần nó cũng bị hút vào. Họ đề xuất tên gọi khác "ôn hòa" hơn là "hố vô hình”.

Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012

Nội dung thuyết Big Bang. Nhữnh căn cứ để thuyết Big Bang ra đời


Dựa trên lý thuyết của ngành vật lý các hạt cơ bản, qua những phương tiện quan sát, tính toán và kết quả thực nghiệm trong những máy gia tốc, vật lý thiên văn hiện đại cho rằng vũ trụ được tạo ra cách đây khoảng 15 tỷ năm do một vụ nổ Nguyên Thuỷ vĩ đại gọi là Big Bang(Vụ Nổ lớn). Vũ trụ Nguyên thuỷ chỉ là một đám sương mù mờ ảo. Theo những nghiên cứu của thiên văn học hiện đại, những thiên thể như sao, các hành tinh được hình thành từ những đám khí khổng lồ bị co và đông lại vì sức hút của trường hấp dẫn trong đám khí, rồi sau đó nổ tung ra.
Năm 1985 có một nhà vật lý đã nhận xét tại hội nghị khoa học: "Việc vũ trụ khởi đầu với Big Bang khoảng 15 tỷ năm trước cũng chắc chắn như Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời". Vậy thuyết Big Bang như thế nào mà mà họ tin tưởng như vậy?
Chúng ta cấu thành từ cái gì? Vũ trụ đã bắt đầu như thế nào? Tại sao nó lại hành xử theo kiểu của nó? Chúng ta hãy cùng nhau khảo sát những câu hỏi này và bước vào thế giới của những cái rất, rất nhỏ - ngành vật lí hạt cơ bản. (Ảnh:  NASA, ESA, và G. Bacon, Viện Khoa học Kính thiên văn vũ trụ)
Không nên hình dung rằng Big Bang giống như vụ nổ của một quả pháo khổng lồ, mà bạn  có thể đứng lảng ra một bên để quan sát. Ở đây không có một bên nào hết, vì Big Bang là biểu hiện ra đời của chính không gian, thời gian.  Bây giờ chúng ta chúng ta hãy xem cái gì đã xẩy ra sau Vụ Nổ lớn ở các khoảng thời gian khác nhau.
Từ điểm Zero Big Bang đến 10-43s. Trong khoảng thời gian cực nhỏ nhưng quan trọng này chúng ta mới biết được rất ít, bởi vì các định luật vật lý,  như chúng ta đã biết,  đều không đúng ở đây.
Ở 10-43s. Nhiệt độ của vũ trụ khoảng 1023K và vũ trụ dãn nở rất nhanh. Khi đó quá trình dãn nở rất nhanh, nhiệt độ giảm đều cho tới khi đạt tới giá trị hiện nay khoảng 3 K.
Từ 10-43s đến 10-35s. trong khoảng thời gian này, các lực mạnh, lực yếu và lực điện từ tác dụng như một lực duy nhất được mô tả bởi lý thuyết Thống nhất lớn, còn lực hấp dẫn tác dụng tách rời như hiện nay.
Từ 10-35s đến 10-10s. Lực mạnh tách ra, để lại lực điện từ, lực yếu  và hấp dẫn vẫn còn tác dụng như một lực duy nhất.
Từ 10-10s đến 10-5s. Tất cả bốn lực đều tách biệt ra như hiện nay. Vũ trụ như một "món súp nóng" gồm các quark, leptôn và photon.
Từ 10-5s đến 3 phút. Các quark kết hợp để tạo nên các mezon và barion. Vật chất và phản vật chất huỷ nhau quét đi phản vật chất và chỉ để lại một lượng dư nhỏ vật chất, từ đó tạo nên vũ trụ của chúng ta hiện nay.
Từ 3 phút đến 105 năm. Các prôton và nơtron kết hợp để tạo ra các nucleit nhẹ và  với độ phổ cập đồng vị đúng như hiện nay. Vũ trụ là một plasma của các hạt nhân và electron.
Từ 105 năm đến nay. Bắt đầu thời kỳ này các nguyên tử được tạo thành. Vũ trụ trở nên trong suốt đối với các photon và  bức xạ. Từ đây chúng bắt đầu một hành trình dài dằng dặc và nay mới đến được chúng ta như bức xạ nền vi ba. Rồi các các nguyên tử cụm lại để tạo ra các thiên hà, sau đó là các sao và các hành tinh, rồi hình thành chính bản thân chúng ta.